08:39 01/06/2025 Ngày 4-5-2025, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng bí thư Tô Lâm đã ký ban hành nghị quyết 68 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Ngay sau đó, Chính phủ trình Quốc hội ban hành nghị quyết số 198 ngày 17-5-2025 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân. Đồng thời, ban hành nghị quyết số 138 của Chính phủ ngày 16-5-2025 về Kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết 68 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 139 ngày 17-5-2025 về Kế hoạch triển khai Nghị quyết số 198 của Quốc hội. Ngày 18-5, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức hội nghị trực tiếp kết hợp trực tuyến toàn quốc quán triệt triển khai thực hiện nghị quyết 68. Như vậy, chỉ trong 2 tuần, các văn bản pháp lý về kinh tế tư nhân đã được hoàn tất, thể hiện sự quan tâm và các chính sách đặc biệt, đột phá của Đảng, Quốc hội, Chính phủ với kinh tế tư nhân, một lực lượng quan trọng trong tiến trình đưa đất nước vững bước vào kỳ nguyên mới.
Bài 1: Những chính sách đột phá, táo bạo
Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng kinh tế tư nhân cũng là lực lượng đang phải đối mặt với nhiều thách thức... Vì thế, nghị quyết 68 của Bộ Chính trị được coi là sự đổi mới, thông thoáng, đổi đời cho kinh tế tư nhân; một bước tiến đột phá về tư duy phát triển, trở thành một "cuộc cách mạng về tư duy và thể chế" được đón nhận với sự kỳ vọng rất lớn lao, tạo lập và củng cố niềm tin, thúc đẩy kinh tế tư nhân vươn lên, bứt phá, đóng góp cho đất nước.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân
Theo Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới như Vingroup, Masan, Thaco, Hoà Phát, FPT, Vinamilk…, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng nội địa, tham gia tích cực các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như EVFTA, CPTPP…
Các đại biểu thực hiện nghi lễ khởi công Khu đô thị Vinhomes Golden City tại Hải Phòng do Tập đoàn Vingroup, một doanh nghiệp tư nhân hàng đầu của cả nước là chủ đầu tư
Đội ngũ doanh nhân ngày càng phát triển lớn mạnh; tinh thần kinh doanh, tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên ngày càng mạnh mẽ. Đặc biệt, ngay cả trong những thời kỳ khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, các doanh nghiệp, doanh nhân vẫn nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, thể hiện trách nhiệm xã hội với cộng đồng.
Mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn những tồn tại, hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, nội lực và chưa đóng góp xứng đáng cho kinh tế quốc gia. Trong đó, mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân đề ra tại nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017 (đạt 1,5 triệu doanh nghiệp và đóng góp 55% GDP vào năm 2025) vẫn chưa đạt được. Gần 98% doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, siêu nhỏ (gần 70% quy mô siêu nhỏ), sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế; năng suất lao động thấp hơn khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Nhà nước; tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp (chỉ khoảng 21%).
Bên cạnh đó, tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân đạt khoảng 10 doanh nghiệp/1000 dân vào năm 2024, thấp hơn so với các nước trong khu vực. Tốc độ doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng, phản ánh tình trạng khó khăn do biến động bất lợi của tình hình quốc tế, trong nước; việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, nhất là về tài chính, tín dụng, đất đai, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm gần 98% số lượng doanh nghiệp nhưng tiếp cận chưa đến 20% tổng dư nợ tín dụng). Các doanh nghiệp tư nhân chiếm chưa đến 10% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán.
Các đại biểu thực hiện nghi lễ động thổ dự án Khu Công nghiệp Tràng Duệ 3
Đáng chú ý, kết nối giữa các doanh nghiệp tư nhân (DNTN), giữa DNTN với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI còn hạn chế (chỉ có 18% doanh nghiệp có kết nối chuỗi giá trị toàn cầu, trong đó doanh nghiệp lớn chiếm đến 62%, còn lại là doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Một bộ phận DNTN chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh còn hạn chế (cạnh tranh thiếu lành mạnh, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm hợp đồng…). Một số DNTN còn tham gia vào buôn lậu, trốn thuế, thao túng thị trường, găm hàng, đội giá… Công tác quản lý hộ kinh doanh cá thể còn nhiều hạn chế, bất cập.
Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, nguyên nhân chính của hạn chế, bất cập nêu trên là thể chế, pháp luật vẫn là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, gây cản trở phát triển KTTN; năng lực nội tại của KTTN còn hạn chế, nhất là về vốn, quản trị, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số, áp dụng các mô hình kinh doanh mới như kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn. Tư duy, nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức còn mang nặng tính “xin - cho”; còn tình trạng thiếu trách nhiệm, nhũng nhiễu, tiếp tay cho tiêu cực, lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí…
Đưa KTTN là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp tư nhân đang rất vui mừng, phấn khởi, tràn đầy niềm tin và hy vọng khi NQ68 đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo mang tính đột phá về phát triển KTTN.
Nổi bật là xác định KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, hội nhập quốc tế.
Đồng thời xác định phát triển KTTN nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài. Đây là yêu cầu tất yếu khách quan, trong đó KTTN là phương thức quan trọng nhất để giải phóng sức sản xuất, kích hoạt, huy động, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, nhất là trong nhân dân.
Doanh nghiệp tư nhân đầu tư xây dựng thành công các bến cảng nước sâu tại Hải Phòng
Cùng với đó, xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về KTTN; coi doanh nhân là những chiến sỹ trên mặt trận kinh tế; tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, toàn cầu; thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, làm giàu hợp pháp, đóng góp cho đất nước.
NQ68 thể hiện rõ quan điểm: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kiến tạo của Nhà nước, lấy doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể; tôn vinh, cổ vũ, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh. Qua đó, góp phần thúc đẩy, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, khát vọng cống hiến của đội ngũ doanh nhân cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
NQ68 cũng đặt ra những mục tiêu rất kỳ vọng, đột phá. Theo đó, đến năm 2030, KTTN là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị. Có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/1000 dân; có ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đóng góp khoảng 55-58% GDP, 35-40% tổng thu NSNN; giải quyết việc làm cho khoảng 84-85% tổng số lao động; năng suất lao động tăng bình quân khoảng 8,5-9,5%/năm. Trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số thuộc nhóm 3 nước đứng đầu ASEAN và nhóm 5 nước đứng đầu châu Á.
Tầm nhìn đến năm 2045, KTTN Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu; có năng lực cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; phấn đấu đến năm 2045 có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế; đóng góp khoảng trên 60% GDP.
Từ đó, nghị quyết đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thể hiện tinh thần đổi mới, đột phá, cải cách mạnh mẽ, bảo đảm bám sát 03 đột phá chiến lược (về thể chế, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng) và trong tổng thể 4 Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, gồm: nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; nghị quyết 59về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật; nghị quyết 68-về phát triển KTTN.
Trong đó, nội dung trọng tâm của 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là nhằm giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp bách nhất đối với phát triển KTTN hiện nay là đổi mới tư duy, nhận thức và hành động; cải cách, nâng cao chất lượng thể chế; tăng cường tiếp cận các nguồn lực; thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; tăng cường kết nối doanh nghiệp; phát triển DNTN lớn; hỗ trợ DNTN nhỏ, siêu nhỏ, hộ kinh doanh; phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân…
(Còn tiếp)
Hồng Thanh
22:30 09/06/2025
16:24 09/06/2025
13:29 09/06/2025
Chuyên mục Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở: Quy định về Hình thức và thời điểm công khai thông tin
Sở Nông nghiệp & Môi trường: Phối hợp xử lý 5 vụ vi phạm pháp luật về đê điều
Chuyên mục Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở: Những điều cần biết
Gala Âm nhạc “Vinh quang CAND Việt Nam” đến thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 6/2025
Hàng nghìn khán giả cùng hòa ca bài hát "Bến Cảng quê hương tôi"
Pháo hoa rực rỡ bầu trời thành phố Cảng dịp kỉ niệm 70 năm giải phóng Hải Phòng
Người dân đất Cảng hào hứng xem lễ duyệt đội ngũ, diều hành lễ kỉ niệm 70 năm giải phóng Hải Phòng
Góp ý nội dung dự thảo sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 trên ứng dụng VNeID
Người dân nô nức ngắm pháo hoa chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày giải phóng Hải Phòng
Hàng vạn khán giả hòa mình vào không khí Lễ Kỷ niệm 70 năm Hải Phòng giải phóng
Hải Phòng rực rỡ cờ hoa chào đón các ngày lễ lớn trong tháng 5 lịch sử