Ngày 5-9-2022, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị định số 59/2022/NĐ-CP, quy định về định danh và xác thực điện tử. Nghị định này chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 20-10-2022; sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 7, Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 8-4-2020 về thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử như sau:
Nếu như tại Điều 2, Chương I, Thông tư số 16/2018/TT-BCA ngày 15-5-2018 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định rõ thẩm quyền quyết định số lượng, chủng loại VK, CCHT được phép mang vào, ra khỏi lãnh thổ Việt Nam thì Điều 3 của Thông tư quy định chi tiết về việc cấp, cấp đổi, cấp lại giấy phép, giấy xác nhận về VK, VLN, tiền chất thuốc nổ, CCHT, thông báo xác nhận khai báo vũ khí thô sơ (VKTS).
Ngày 15-5-2018, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký ban hành Thông tư số 16/2018/TT-BCA, quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (VK, VLN, CCHT).
Tại Điều 2, Chương I, Thông tư số 16/2018/TT-BCA ngày 15-5-2018 của Bộ trưởng Bộ Công an đã quy định rõ thẩm quyền quyết định số lượng, chủng loại VK, CCHT được phép mang vào, ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Nếu như Điều 19, Chương IV, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Công an trong công tác quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ thì Điều 20 Nghị định quy định chi tiết về trách nhiệm của Bộ Quốc phòng như sau:
Nếu như Điều 19, 20, Chương IV, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong công tác quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ thì Điều 21 Nghị định quy định chi tiết về trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan cụ thể như sau:
Nếu như tại các Điều 19, 20, 21, Chương IV, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành có liên quan trong công tác quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ thì Điều 22 Nghị định quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp như sau:
Nếu như Điều 17, Chương III, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định cụ thể về công tác kiểm tra, sát hạch cấp giấy chứng nhận sử dụng, chứng chỉ quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ thì Điều 18 Nghị định quy định chi tiết về việc Cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận sử dụng, chứng chỉ quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ.
Tại Điều 19, Chương IV, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định cụ thể về trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Công an trong công tác quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ như sau:
Nếu như Điều 12, Chương III, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định về đối tượng huấn luyện, cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận sử dụng, chứng chỉ quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ thì Điều 13 của Nghị định quy định chi tiết yêu cầu, nội dung, thời gian, địa điểm, kinh phí tổ chức huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cụ thể như sau:
Nếu như tại các Điều 28, 29, Chương IV, Nghị định số 59/2022/NĐ-CP quy định về định danh, xác thực điện tử chính thức có hiệu lực từ ngày 20-10-2022, đã quy định rõ về hồ sơ, trình tự thủ tục cấp giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử và thủ tục cấp lại, thay đổi Giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử thì Điều 30 của Nghị định quy định chi tiết về việc thu hồi Giấy xác nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ xác thực điện tử như sau:
Nếu như Điều 13, Chương III, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định chi tiết yêu cầu, nội dung, thời gian, địa điểm, kinh phí tổ chức huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cụ thì tại các Điều 14, 15 của Nghị định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ và thẩm quyền huấn luyện, cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận sử dụng, chứng chỉ quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cho các đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Nếu như Điều 13, Chương III, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định chi tiết yêu cầu, nội dung, thời gian, địa điểm, kinh phí tổ chức huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cụ thì tại các Điều 14, 15 của Nghị định cụ thể về tiêu chuẩn cán bộ huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ và thẩm quyền huấn luyện, cấp, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận sử dụng, chứng chỉ quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cho các đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Tại Điều 16, Chương III, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định chi tiết về thủ tục huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cho các đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng như sau:
Nếu như Điều 16, Chương III, Nghị định số 79/2018/NĐ-CP, ngày 16-5-2018 của Chính phủ, quy định chi tiết về thủ tục huấn luyện về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ cho các đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thì Điều 17 Nghị định quy định cụ thể về công tác kiểm tra, sát hạch cấp giấy chứng nhận sử dụng, chứng chỉ quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ.
Chương V, Nghị định số 59/2022/NĐ-CP quy định về định danh, xác thực điện tử chính thức có hiệu lực từ ngày 20-10-2022, đã quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Độc đáo phiên chợ cầu may cả năm chỉ họp một lần ở Hải Phòng
Công ty Liên doanh sản xuất thép Vinausteel: Vượt khó khăn để gặt hái thành công
Hướng dẫn thoát nạn khi có cháy nhà ở nhà chung cư, cao tầng
Chợ hoa, cây cảnh đường Lê Hồng Phong rực rỡ hương xuân sắc Tết
Giữ vững thế chủ động chiến lược về an ninh, trật tự để phát triển đất nước
Công đoàn Công an thành phố: Ra mắt Câu lạc bộ tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động